Nữ oa và ngọc hoàng. Theo game phong thần Dị phiên bản Ký, Hồng Quân lão tổ bởi vì khí hồng mông hoang vu sinh ra, từ bỏ khi chưa xuất hiện vũ trụ, chưa có thế giới đồ gia dụng chất, ý thức tinh thần. Hồng Quân Lão Tổ xem như đấng tối cao, chí tôn, người đời vô
Ai xem Tây Du Ký đều biết tới chuyện Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung, đánh bại tất cả thiên binh thần tướng, chỉ đến khi Ngọc Hoàng thượng đế cho mời Phật tổ Như Lai tới mới có thể thu phục được yêu hầu. Nhưng thực sự Ngọc Hoàng và Phật tổ Như Lai ai mới là người lợi hại hơn, chúng ta thử so sánh theo một số tiêu chí dưới đây nhé.
Ai cũng biết, trong "Tây Du Ký" thì Ngọc Hoàng và Như Lai thân phận cao quý, tu vi thâm hậu nhưng rốt cuộc luận về sức mạnh thì ai hơn ai?
Ngọc Phật Hồ Chí Minh còn gọi là Thánh Minh vì dân tộc . • Quá trình hình thành và phát triển : -Người sáng lập : Nguyễn Thị Lương (1942 ) tại xã Tân Dân ,huyện An Lão ,thành phố Hải Phòng .Trình độ văn hóa 10/10 từng là kế toán xí nghiệp chăn nuôi huyện An Lão ,Hải
Nhóm các vị thần phương Đông do Ngọc Hoàng lãnh đạo và nhóm còn lại là các vị Phật ở núi Trong Tây Du Ký, các vị thần trên bầu trời được chia
Credit to : em xem thấy hay cho mình xin 1 like + sub và cmt cho tăng tương tác nha anh em!-----
zrcL. Ngọc Hoàng Thượng đế là ai?Vua cha Ngọc Hoàng là ai?Đền thờ Vua cha Ngọc Hoàng ở đâu?Tiệc Vua cha Ngọc Hoàng vào ngày nào?Mâm lễ cúng vía Ngọc HoàngBài khấn Vua cha Ngọc HoàngViệc thờ Ngọc Hoàng Thượng đế rất phổ biến trong tín ngưỡng tôn giáo của người Việt. Các chùa miền Bắc Việt Nam từ lâu đã phối thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và các vị thần khác như Nam Tào, Bắc Đẩu, Phạm Thiên, Đế Thích… Cung thờ Vua cha Ngọc Hoàng Ngọc Hoàng Thượng đế là ai? Ngọc Hoàng Thượng đế là vị vua của Thiên đình, cai quản toàn bộ bầu trời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ. Ngọc Hoàng đứng đầu tất cả các thần, tiên,Thánh, Nhân có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chớp, nước lửa… Ngọc Hoàng có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình, thường là những điều tốt đẹp. Ngọc Hoàng cũng là người xét phong cho các vị thần, hoặc xét phạt các thần tiên và thánh nhân. Vua cha Ngọc Hoàng là ai? Trong đạo Mẫu của Việt Nam, Ngọc Hoàng được gọi là Vua cha Ngọc Hoàng, là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, là đấng thần chủ tối cao. Ngọc Hoàng được cho là ở và làm việc tại một cung điện trên trời gọi là Thiên Phủ, nơi có rất nhiều tiên nữ hầu hạ, và các thiên tướng, thiên binh canh gác. Là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu nên Ngọc Hoàng thượng đế thường có ban thờ riêng trong các đền và phủ thuộc hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ. Đền thờ Vua cha Ngọc Hoàng ở đâu? Nằm trên mảnh đất hình đầu rồng, được bao bọc bởi hồ nước trong xanh in bóng những cây nhãn lồng cổ thụ, đền Đậu An là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế cùng các thiên thần. Ngôi đền tọa lạc tại thôn An Xá, xã An Viên, huyện Tiên Lữ, cách thành phố Hưng Yên khoảng 12km. Đền Đậu An ở Hưng Yên thờ Vua cha Ngọc Hoàng Thượng đế Nổi bật và đặc sắc nhất của ngôi đền Đậu an là phải kể đến tòa tháp Cửu trùng bằng đất nung được xây dựng từ thời Lý – Trần. Tháp cao chín tầng biểu thị chín tầng mây cao vời vợi của chốn cửu trùng. Tòa tháp Cửu Trùng Ở Việt Nam ngoài đền Đậu An thờ Ngọc Hoàng Thượng đế chỉ thống kê nơi thờ chính, không tính việc phối thờ Ngọc Hoàng trong rất nhiều đền, chùa và điện thờ Mẫu Tam Phủ thì còn một số đền dưới đây Đàn Kính Thiên Tràng An ở xã Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng đế cùng các vị Phạm Thiên, Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu với Lễ tế Thiên được diễn ra hàng năm. Đàn Nam Giao thuộc di tích cố đô Huế là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm. Lễ tế Nam Giao là nghi lễ quan trọng bậc nhất dưới chế độ quân chủ vì chỉ nhà vua mới có quyền làm lễ tế Giao, tức là tế Trời Đất, nhằm khẳng định tính chính thống của triều đại, uy quyền của Hoàng đế tuân theo mệnh trời mà cai trị dân chúng. Chùa Ngọc Hoàng ở thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Chùa Ngọc Hoàng toạ lạc tại số 73 đường Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, vốn là một ngôi điện thờ Ngọc Hoàng Thượng đế. Nhà thờ họ Trương Việt Nam tại thị trấn Thiên Tôn, Hoa Lư, Ninh Bình thờ Ngọc Hoàng Thượng đế với tên húy Trương Hữu Nhân hay Trương Ngọc Hoàng. Điện Bồ Hong trên đỉnh núi Cấm thuộc xã An Hảo, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Chùa Vân An ở thị trấn huyện Bảo Lạc, Cao Bằng thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và Quan thế âm Bồ Tát với lễ hội Lồng Tồng hằng năm được tổ chức vào ngày mùng 9 tháng Giêng, ngày sinh của Ngọc Hoàng Thượng đế. Đền Ô Xuyên ở xã Cổ Bì, Bình Giang, Hải Dương thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và 5 vị Thành hoàng làng. Tương truyền, đây là nơi Ngọc Hoàng thường xuống chơi du ngoạn. Tiệc Vua cha Ngọc Hoàng vào ngày nào? Vào ngày 9 tháng 1 Âm lịch là ngày Thánh Đản, Ngọc Hoàng tự thân giáng hạ nhân gian. Theo hầu có rất nhiều các vị thần tiên, Kim Đồng Ngọc Nữ và 7 vạn thiên binh thiên tướng, Thần Tài, Văn Xương , Tử Vi Đại Đế, Nam Tào Bắc Đẩu, Thái Ất Chân Nhân, Chú Sinh Nương Nương, Phúc Lộc Thọ….Các vị thần tiên đang cai quản dưới hạ giới như Thổ Công Táo Quân, Địa Phủ, Thành Hoàng, Thổ Địa, các vị thần sông, thần núi, thần đường, thần giếng, thần cửa, vua bếp, thần cây….đều chờ đón nghinh thỉnh Ngọc Hoàng hạ phàm đầu năm định xét phúc tội . Được lệnh của Ngọc Hoàng các vị thần tiên sẽ xá tội và ban phúc cho 10 phương, 6 cõi , nên tất cả nhân gian trong Tam giới làm lễ nghinh thỉnh Ngọc Hoàng và cầu phúc. Vì vậy ở các Đền, Miếu, Quán, Thành Hoàng các nơi dâng 18 món ăn và tấu sớ cầu mong cả một năm Ngọc Hoàng xá tội, ban phúc. Nhất là những nhà có người thân mới mất dưới địa phủ , những người mất bị oan nghiệt, oan trái, hoặc người chết đường vong hồn còn phiêu bạt nơi đất khách quê người. Hoặc nhiều nhà tổ tiên nặng nghiệp . mong Ngọc Hoàng xá tội nhanh chóng được siêu thoát và đi đầu thai. Phù cho tất cả mọi sinh linh đang sinh sống trên nhân gian được an khang, đò đầy mãn quả.” Phong tục cúng vía trời được người dân việt nam cũng như người Hoa duy trì đến ngày nay. Theo quan niệm, cúng vía trời phải được cúng vào giờ Tý, lúc bắt đầu một ngày mới khi mặt trời còn chưa mọc. Vậy phải chuẩn bị lễ vật cúng mùng 9 tháng giêng như thế nào? Mâm lễ cúng vía Ngọc Hoàng Về lễ vật, theo cách cúng đơn sơ nhưng phổ biến thì chỉ gồm nhang, đèn cầy, 1 đĩa hoa quả, hoa tươi, trà hay nước lã. Tuy nhiên, cách cúng Trời/Ngọc Hoàng thật đầy đủ, đúng theo bài bản cổ truyền thì vẫn được những gia đình khá giã – nhất là người Hoa trong vùng Chợ Lớn – thực hiện nghiêm chỉnh, tức cúng đủ “lục lễ” gồm “hương, đăng, hoa, trà, quả, phẩm”. Ngoài các vật phẩm đơn sơ trên nhiều gia chủ còn đặc biệt chuẩn bị món “lễ” cuối cùng là “phẩm” phẩm vật, cúng Trời phải là các loại đồ khô như bột khoai, bột bán kim, nấm mèo, đông cô, táo tàu, bùn tàu, tàu hủ ki, phổ tai…, với số lượng tính theo số lẻ, là 5, 7 hay 9 loại tùy theo gia chủ. Vàng mã gia chủ cần chuẩn bị những thếp tiền vàng đặc biệt phải có màu vàng, một cặp thùng giấy một cái màu vàng và một màu bạc.Và một cặp thùng giấy giống thùng xách nước, một cái màu vàng kim, một cái màu bạc, một cặp mía màu vàng còn nguyên ngọn và đường đổ khuôn. Món đường cúng Trời/Ngọc Hoàng là loại đường mía, được thêm màu vàng, đỏ hay hồng, sau đó nấu đổ vào khuôn thành hình tháp lục giác, kỳ lân, hay lý ngư, thỏi vàng… Bài khấn Vua cha Ngọc Hoàng Nam mô a di đà Phật Nam mô a di đà Phật Nam mô a di đà Phật Con xin cung thỉnh đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đức vua cha Bát Hải, Đức vua cha Thủy Tề, Hội đồng đức vua cha. Quan nam tào bắc đẩu, tứ đại thiên vương, thiên long hộ pháp. Con xin cung thỉnh Ngũ vị Hoàng tử, ngũ vị Tiên Ông. Con xin cung thỉnh Đức Hoàng Thiên Quốc mẫu, Mộc Công thiên mẫu, Mẫu Bát Hải, Mẫu Thủy tề. Thánh mẫu Cửu trùng thiên. Con xin cung thỉnh Đức Phật a di đà dược sư lưu ly quang như lai Phật – con xin cung thỉnh đức Phật thích ca mâu ni, giáo chủ cõi cực lạc sa bà như lai – con xin cung thỉnh Đức Phật mẫu Chuẩn Đề quan thế Âm bồ tát. Con xin cung thỉnh Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, cùng muôn ngàn chư vị Phật, chư vị Bồ tát, các chư vị La hán, các đức Hộ pháp. Con xin cung thỉnh các Vua, các Mẫu, các chầu các quan, Mẫu đệ nhất, Mẫu đệ nhị, Mẫu đệ tam, tam tòa đức Thánh mẫu. Con xin cung thỉnh Tứ phủ chầu bà, Tứ phủ vạn linh, long thiên thánh chúng vị tiền. Con xin cung thỉnh các vị tiên thiên, tiên thánh, tiên thần, Đức thánh Tản Viên Sơn Thần, Đức thánh Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, các thánh cô, thánh cậu, hồn thiêng sông núi. Con xin cung thỉnh các Quan thần linh bản địa, Thần hoàng bản thổ, Thần công thổ địa, Thần tài, Thần quân Táo công muôn vàn chư vị thân linh đang cai quản …Địa chỉ nhà mình. Con xin cung thỉnh đức thánh tổ dòng họ bố hoặc Nhà chồng Bà cô tổ dòng họ…, các cụ tổ tiên hai bên nội ngoại, các hội đồng bà cô, ông mãnh, các vong linh, hương hồn dòng họ……, các cô bé đỏ cậu bé đỏ. Hôm nay ngày ….. tháng ….. năm …… Chúng con họ tên chồng, vợ rồi đến các con…. có nén hương, chút lễ mọn với lòng thành kính dâng lên Trời, Phật, các cung các cõi linh thiêng. Cầu xin các ngài gia hộ độ trì cho chúng con Được âm phù, dương trợ, được trên kính, dưới nhường, được bạn bè người thân giúp đỡ, để công việc được thuận buồm xuôi gió. Cho chúng con Nhà cửa yên ấm, bình an, vợ chồng hạnh phúc, các con khỏe mạnh, có tài có lộc, có điều kiện, có phương tiện để làm phúc làm thiện, tích phúc, tích đức, làm rạng danh cho dòng họ, tổ tiên. Lễ mọn lòng thành xin các ngài, các cung các cõi linh thiêng chấp lễ, chấp lời cầu xin thỉnh nguyện của chúng con. Nam mô a di đà Phật Nam mô a di đà Phật Nam mô a di đà Phật
Ai cũng biết, trong "Tây Du Ký" thì Ngọc Hoàng và Như Lai thân phận cao quý, tu vi thâm hậu nhưng rốt cuộc luận về sức mạnh thì ai hơn ai? Domain Liên kết Bài viết liên quan Phật và chúa ai mạnh hơn chúa và phật ai hơn mạnh [9LY5DB] mục lục phật và chúa ai mạnh hơn "Tôi mạnh hơn các anh, anh không bằng tôi" vậy là vĩnh viễn không; Bác Hồ với đức tin và đoàn kết tôn giáo - Sở Nội Vụ Nam Định Sự ra đời, tồn tại, phát triển của CNTB Xem thêm Chi Tiết
Chúa Trời và Đức Phật – Ai “tối cao” hơn ai ? 1 Trong lúc tín đồ Thiên Chúa giáo xem Chúa Trời như là chúa tể và đấng sáng tạo ra họ, thì Phật tử lại nhìn Đức Phật như là kiểu mẩu và lý tưởng của mình . Mặc dù tín đồ Thiên Chúa giáo chưa hề thấy Chúa Trời, nhưng họ vẫn khẳng định biết Ngài bằng cách thông tri với Ngài qua cầu nguyện và cảm xúc được sự hiện diện của Ngài. Họ cũng khẳng định rằng họ có thể biết ý muốn của Chúa Trời bằng cách đọc các lời của Ngài mà họ xác nhận là được viết trong Kinh Thánh. Vì các Phật tử không cầu nguyện mà cũng không công nhận Chúa Trời, nên cách duy nhất mà Phật tử có thể có được một ý niệm như thế nào về Ngài là bằng cách đọc Kinh Thánh. Tuy nhiên, khi Phật tử đọc những gì Kinh Thánh nói về Chúa Trời thì họ thường bị sốc. Họ nhận thấy rằng Chúa Trời như được mô tả trong Kinh Thánh là hết sức khác với những gì họ nghe tín đồ Thiên Chúa giáo mô tả về Ngài. Trong khi Phật tử từ chối ý niệm Chúa Trời của Thiên Chúa giáo bởi nó có vẻ không hợp lý và vô căn cứ, thì họ cũng từ chối bởi vì nó có vẻ thấp kém hơn mẫu nhân vật lý tưởng của riêng họ là Đức Phật. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét điều mà Kinh Thánh nói về Chúa Trời, rồi so sánh điều đó với kinh Tipitaka kinh của Phật tử nói về Đức Phật, và từ đó chứng tỏ tính ưu việt về phẩm hạnh của Đức Phật. Diện mạo và Ngoại hình Chúa Trời trông giống ra sao? Kinh Thánh bảo Ngài tạo ra con người theo hình tượng chính mình Gen, 126 vì thế, từ điều này, chúng ta có thể hình dung ra rằng ngoại diện Chúa Trời trông giống như một người đàn ông. Kinh Thánh nói với chúng ta rằng Chúa Trời có các bàn tay Ex, 1512, các cánh tay Deut, 112, các ngón tay Deut, 137. Chúa Trời không thích con người thấy mặt Ngài nhưng nếu nhỡ thấy lưng Ngài thì cũng không sao. Và Ta sẽ lấy tay ta đi và các ngươi sẽ thấy phần lưng của ta nhưng các ngươi sẽ không thấy mặt. Ex 3323. Tuy nhiên, mặc dù Chúa Trời có vẻ có cơ thể của một con người, nhưng đồng thời Ngài cũng trông giống các yêu quái và những thần canh cửa dữ dằn mà chúng ta thường thấy tại các đền thờ ở Ấn Độ và Trung Quốc. Chẳng hạn, Ngài có các ngọn lửa bốc ra từ thân thể. Một ngọn lửa phát ra từ thân thể của Ngài và thiêu đốt mọi kẻ thù khắp mọi phía Ps, 973. Chúa Trời của chúng ta đến và sẽ không giữ yên lặng, phía trước Ngài là các vầng lửa và chung quanh Ngài là giông tố nổi lên giận dữ Ps, 503. Bấy giờ, người ta kêu ca nỗi gian khổ cho Chúa nghe, và khi nghe xong, cơn giận của Ngài nổi lên. Thế rồi lửa của Chúa thiêu đốt họ và phá huỷ vài lều trại vòng ngoài của họ Num, 111. Khi Chúa Trời nổi giận, mà hình như Ngài thường nổi giận lắm, khói lửa phun ra từ thân thể của Ngài. Trái đất run rẩy và rúng động, nền móng các núi non lay động, chúng run sợ vì Ngài giận dữ. Khói phì ra từ lổ mũi Ngài, lửa đỏ phun ra rất nhiều từ miệng Ngài, làm thoát ra những cục than hồng rực sáng Ps, 187-8. Khi nhà tiên tri Ezekiel thấy Chúa Trời và các thiên thần tuỳ tùng, ông đã mô tả họ như thế này. Vào ngày mồng năm trong tháng – đấy là năm thứ năm của cuộc lưu đày của Vua Jehoiach, thì lời của Chúa đến với thầy tế Ezekiel, con trai của Buzi, gần bên sông Kebar trong xứ sở người Ba-by-lon. Này đây là tay của Chúa đặt trên vị tiên tri. Tôi nhìn, và thấy một cơn dông bão ào đến từ phương bắc – một vầng mây lớn với sấm chớp tỏa rực và ánh sáng rực rỡ bao quanh. Ở trung tâm của ngọn lửa trông như kim loại lấp lánh, và trong ngọn lửa có cái gì trông giống bốn sinh vật dáng vẻ như con người, nhưng mỗi một sinh vật thì có bốn gương mặt và bốn cái cánh. Chân họ thẳng, các bàn chân như bàn chân của một con bê và lấp lánh như đồng thiếc được đánh bóng. Dưới các cánh ở bốn phía thì có các bàn tay như tay người. Cả bốn bọn họ đều có mặt và có cánh, và các cánh nầy tiếp xúc với nhau. Bọn họ đi thẳng về phía trước; họ không quay người khi chuyển động. Gương mặt của họ trông như thế này Một trong bốn gương mặt là mặt người, và phía bên phải là mặt sư tử, phía bên trái là mặt bò đực, và có cả một gương mặt của chim ưng. Mặt của họ là như thế đấy. Các cánh họ dang rộng lên cao; mỗi người có hai cánh để tiếp xúc với hai cánh của sinh vật ở hai bên, và hai cánh để che phủ lấy cơ thể. Bọn họ đi thẳng về phía trước. Bất kỳ sinh vật siêu nhiên đó muốn đi đâu là họ cứ đi mà không phải xoay trở. Dáng vẻ các sinh vật đó như than rực đỏ hay như các ngọn đuốc. Lửa chuyển động tới lui giữa các sinh vật, lửa bùng sáng và sấm chớp loé ra từ đó. Các sinh vật tới lui như chớp giật. Khi nhìn các sinh vật đó, tôi thấy một bánh xe trên mặt đất bên cạnh mỗi sinh vật bốn mặt nầy. Đây là hình vẻ và cấu trúc các bánh xe chúng nhấp nháy như hoàng ngọc, và tất cả bốn bánh xe đều giống nhau. Mỗi bánh xe được sắp đặt để có vẻ như bánh này giao nhau với bánh kia Ezek, 14-21. Tín đồ Thiên Chúa giáo thường nhìn các thần linh nhiều cánh tay và gương mặt dữ tợn trong các đền thờ Ấn Độ giáo và Lão giáo rồi khẳng định rằng những thần đó là quỷ dữ chứ chẳng phải là thánh thần gì cả – nhưng như Kinh Thánh đã làm sáng tỏ, ngoại diện của Chúa Trời của Thiên Chúa giáo thì cũng rất tương tự như các thánh thần ở trên. Hơn nữa, nếu có một thần Ấn Độ giáo và Lão giáo mang nhiều vũ khí khác nhau, thì Chúa Trời của Thiên Chúa giáo cũng thế thôi. Vào ngày đó, Chúa sẽ trừng phạt bằng lưõi gươm của Ngài, lưỡi gươm cuồng nộ, to lớn và dũng mãnh của Ngài Is, 271. Mặt trời và mặt trăng đứng yên trên bầu trời vì tia sáng phát ra từ các mũi tên đang bay của Ngài, vì ánh sáng ngọn giáo nung nóng của Ngài. Trong cơn cuồng nộ, Ngài vượt xuyên qua địa cầu và trong cơn giận dữ Ngài trừng phạt các dân tộc Haba, 311-12. Từ trời cao, Chúa nổi sấm sét, giọng nói của Đấng Tối cao vang lên. Ngài bắn các mũi tên của Ngài làm kẻ thù tan lả tả Ps, 1813-14. Nhưng Chúa sẽ bắn chúng bằng các mũi tên, thình lình chúng sẽ bị đốn ngã Ps, 647. Thế rồi Chúa sẽ xuất hiện trên đầu chúng, các mũi tên của Ngài loé lên như tia chớp. Chúa tối cao sẽ nổi kèn xuất quân Zech, 914. Một điều thú vị khác là dáng vẻ của Chúa Trời thì giống như các thần phi-Thiên Chúa khi Ngài di chuyển. Kinh Thánh nói với chúng ta rằng Chúa Trời di chuyển từ chổ này sang chổ khác hoặc bằng cách ngồi trên các vầng mây Is, 191 hoặc cỡi trên lưng một thiên thần Ps, 1810. Rõ ràng là từ các trích dẫn này, Chúa Trời có một dáng vẻ man rợ và kinh khiếp; một kết luận xác minh lần nữa bởi Kinh Thánh rằng trong đó con người được mô tả cực kỳ khiếp sợ bóng dáng của Chúa Trời. Hãy thờ phụng Chúa với sợ hãi và run sợ, hãy hôn bàn chân Ngài nếu không Ngài sẽ nổi giận và các ngươi sẽ bị diệt vong, vì sự phẫn nộ của Ngài thì dễ bị kích động một cách nhanh chóng Ps, 211. Bởi thế, con khiếp sợ sự hiện diện của Ngài. Khi nghĩ đến Ngài là con kinh sợ Ngài, Chúa Trời đã làm cho tim con yếu ớt. Đấng Thượng Đế đã kinh động con Job, 2315. Giê-su thường nói rằng chúng ta phải kính sợ Chúa Trời Lk, l24 -5. Kinh Thánh cũng nói một cách đúng đắn rằng nơi nào có sợ hãi thì nơi đó không thể có yêu thương I Jn, 418 và vì thế, nếu Chúa Trời đã làm cho con người sợ hãi thì thật là khó hiểu làm sao mà đồng thời, con người có thể yêu thương Ngài một cách chân thành được. Còn Đức Phật thì giống như thế nào? Là người, Đức Phật có thân thể của một con người bình thường. Tuy nhiên, Tipitaka kinh của Phật tử thường nói Ngài có vẻ đẹp cao cả riêng. Ngài đẹp đẻ, xinh tươi, dễ nhìn, một hình sắc tốt đẹp nhất, hình thể và nét trang nghiêm của ngài như Brahma, ngoại hình của Ngài đẹp đẻ Digha Nikaya, Kinh số 4. Ngài đẹp đẻ, gây được niềm tin, với ý thức điềm tĩnh và tâm trí thanh tịnh, trầm tĩnh và tự chủ, như một con voi được thuần phục một cách hoàn hảo Anguttara Nikaya, Kinh số 36. Bất cứ khi nào người ta thấy Đức Phật, nhân dáng điềm tĩnh của Ngài bao trùm lấy họ bằng sự an lành, và nụ cười nhẹ nhàng của Ngài an ủi họ. Như chúng ta đã thấy, giọng nói của Chúa Trời vang to và khủng khiếp như sấm Ps, 6833, thì giọng nói của Đức Phật lại nhẹ nhàng và êm dịu. Khi ở tu viện, nếu Ngài đang giảng Pháp, Ngài đã không đề cao hay xem thường cử toạ. Trái lại, Ngài làm cho họ vui thích, được nâng cao, được hứng khởi và làm họ sung sướng với bài Pháp. Âm thanh giọng nói của Phật có tám đặc điểm; đấy là dứt khoát và dễ hiểu, ngọt ngào và dễ nghe, lưu loát và trong sáng, sâu xa và âm vang Majjihima Nikaya, Kinh số 19. Chúa Trời mang vũ khí vì Ngài phải giết kẻ thù của mình và vì Ngài khống chế con người bằng bạo lực và đe doạ. Đức Phật, trái lại, chẵng tỏ ra thù hằn ai và có thể kiểm soát người khác bằng lý lẽ. Nói về Đức Phật, có lần Vua Pasenadi đã nói Ta là vua, có thể thi hành những gì cần thi hành, trừng phạt những ai cần trừng phạt, hay lưu đày những ai cần lưu đày. Nhưng khi ta đang ngồi ở một phiên toà, đôi lúc có người chận ngang cả ta. Ngay chính ta cũng không có cả cơ hội để nói “Đừng cắt lời ta! Hãy đợi ta nói xong đã.” Nhung khi Đức Phật giảng Pháp, không có ngay cả một tiếng ho của thính chúng. Một lần nọ, trong khi ta ngồi nghe Ngài thuyết Pháp, bỗng có một môn đồ nào đó ho lên một tiếng, và một đồng môn đã gõ lên đầu gối kẻ nọ rồi nói, “Thưa bạn, hãy yên lặng, đừng làm ồn. Sư phụ chúng ta đang giảng Pháp”, và ta tự nghĩ, thật là kỳ diệu, thật là phi thường, các môn đồ đã được khéo dạy dỗ mà chẵng cần roi vọt hay gươm đao gì Majjhima Nikaya, Kinh số 89. Chúng ta có thể tưởng tượng Chúa Trời sẽ phản ứng thế nào nếu một ai đó dại dột chen ngang khi Ngài đang nói. Chúng ta cũng có thể hiểu từ những điều nói trên rằng vóc dáng Đức Phật đã phản ánh sự trầm tỉnh và tình thương sâu xa bên trong. Người ta luôn say mê hứng khởi do vầng hào quang bình an bao bọc quanh Đức Phật. Bản chất Trí tuệ Chúng ta đã thấy rằng Phật tử không tin vào Chúa Trời bởi vì đối với họ ý niệm về một vị “Chúa” là vô lý và trái ngược với hiện thực. Phật tử cũng bác bỏ “Chúa” của người Thiên Chúa giáo vì, nếu Kinh Thánh đúng, Chúa Trời có vẻ không được hoàn hảo lắm. Hầu hết những người có học thức không thể chấp nhận được những xúc cảm tiêu cực mà họ tìm thấy nơi Chúa Trời. Chúng ta hãy xem xét Kinh Thánh mô tả trí tuệ Chúa Trời như thế nào. Tính tình nỗi bật nhất của Chúa Trời, hơn hẳn những tính tình khác, là tính ghen tị. Thậm chí chính Ngài còn thừa nhận Ngài là kẻ tị hiềm. Bởi vì Chúa là một ngọn lửa huỷ diệt, một Chúa Trời tị hiềm Deut 424. Không gì làm Chúa Trời đố kỵ bằng người ta thờ phụng các thần linh khác, và thậm chí Ngài còn bảo chúng ta phải giết ngay con của mình nếu chúng theo các thần linh khác. Nếu anh em của ngươi, con trai con gái của ngươi, vợ ngươi hay bạn bè chí cốt của ngươi, bí mật dụ dỗ ngươi, bảo rằng, “ chúng ta hãy thờ phụng thần linh khác” mà ngươi hoặc cha ngươi chẵng hề biết các thần linh đó quanh ngươi dù xa dù gần, dù đầu này hay đầu kia trái đất, thì ngươi không được khuất phục hay nghe theo lời nó, cũng không thương xót, không tha thứ, không che dấu nó, nhưng ngươi phải giết nó mà thôi. Chính tay ngươi phải là bàn tay đầu tiên chống lại nó, giết nó và sau đó mọi kẻ khác có thể đánh đập nó Deut, 136. Kinh Thánh còn cho chúng ta biết rằng Chúa Trời thường mất bình tỉnh và nổi giận. Hãy xem, ngày của Chúa đang đến – một ngày tàn bạo, với phẩn nộ và giận dữ ác liệt, để làm cho mặt đất hoang phế và huỷ diệt những kẻ tội lỗi trên đó Is, 139. Chúa Trời giận dữ hàng ngày Ps, 711. Chúa sẽ làm cho con người nghe giọng nói uy nghi của Ngài và sẽ làm cho họ thấy cánh tay Ngài giáng xuống với giận dữ điên cuồng va đầy lửa Is, 3030. Cơn giận dữ của Ngài sẽ thiêu đốt các ngươi và Ngài sẽ huỷ diệt các ngươi trên mặt đất Deut, 615. Chúa Trời bảo chúng ta phải thương yêu, nhưng Ngài thì được mô tả như là kẻ hận thù và đầy ghê tởm. Các ngươi phải ghét tất cả ai làm điều sai trái. Các ngươi phải huỷ diệt những ai nói dối, Chúa căm thù những kẻ khát máu và lừa lọc Ps, 55-6. Ngài còn được mô tả thêm nữa là ghét nhiều thứ cũng như ghét con người xem 1622, Mala, 216; Lev, 2630. Chúa Trời đặc biệt ghét sâu xa các tôn giáo khác, điều nầy có lẽ giải thích tại sao Thiên Chúa giáo đã luôn luôn là một tôn giáo bất khoan dung như thế. Ngài thường được mô tả đặc biệt thù ghét những ai không thờ phụng Ngài. Linh hồn ta thù ghét các lễ tiết và các lễ hội đã định của các ngươi Is, 114. Đức Phật có lòng trắc ẩn đối với những kẻ hung dữ, Ngài tha thứ những ai đã làm điều sai quấy, và tôn trọng các tôn giáo khác. Chúng ta thấy Chúa thì đố kỵ và căm ghét, có lòng thù hận, và chẵng ngạc nhiên khi Kinh Thánh thường đề cập đến sự trả thù của Chúa. Coi chừng, Chúa của các ngươi sẽ đến với sự báo thù Is, 354. Chúa đang báo thù và phẩn nộ, Chúa báo thù các đối phương của Ngài và phẩn nộ với các kẻ thù của Ngài Nahum 12. Bởi vì chúng ta biết Ngài là người nói rằng “Chính ta phải báo thù, ta phải báo oán”, và thêm nữa “Chúa sẽ phán xét dân Chúa”. Đấy là một điều khủng khiếp khi rơi vào tay Chúa Heb, 1030-31. Xem cả ở Rom, 18, 25-6, 1219. Sẽ có ích gì khi tôn sùng một vị Chúa Trời tâm hồn đầy vẩn đục, một sự vẩn đục mà chúng ta đang cố gắng vượt qua? Suốt bốn mươi năm sau khi giác ngộ, Đức Phật cố thuyết phục con người từ bỏ tính giận dữ, đố kỵ và bất khoan dung, và suốt đời không một lần nào Ngài không làm theo những gì Ngài đã dạy kẻ khác. Ngài làm điều Ngài dạy, và dạy điều Ngài làm, tri hành hợp nhất. Chúng ta không tìm ra một vị thầy nào khác hơn Ngài, người rất nhất quán về điều này dù chúng ta nghiên cứu trong quá khứ hay hiện tại Digha Nikaya, Kinh số 19. Trong toàn bộ kinh Tipitaka, chẳng có một chứng cớ nào nói về Đức Phật biểu hiện tình cảm giận dữ, căm giận, đố kỵ cho nên vì hoàn hảo, Ngài đã thoát ra khỏi mọi tình cảm tiêu cực. Thái độ đối với Chiến tranh Kinh Thánh nói với chúng ta rằng có thời điểm cho hận thù và có thời điểm cho chiến tranh Ex, 38, và ngày nay, ai cũng biết rằng hai điều xấu xa lớn lao nầy, hận thù và chiến tranh, thì phụ thuộc vào nhau. Như chúng ta đã thấy ở trên, Chúa Trời rất có khả năng giận dữ, cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy Ngài dính líu đến chiến tranh. Chúa là một chiến binh. Ex, 153. Chúa ở trong ngươi, Chúa là một chiến binh mang lại chiến thắng Zeph, 317. Chúa tiến tới như một người phi thường, như một chiến binh, Ngài khích động điên cuồng, Ngài hét lớn , la to, Ngài tỏ ra dũng mãnh chống lại kẻ thù Is, 4213. Khi Ta mài nhọn thanh gươm nung nóng và tay Ta siết chặt nó lúc phán xét, Ta sẽ báo thù đối phương và báo oán những ai thù ghét Ta, Ta sẽ để những mũi tên của Ta say máu trong lúc thanh gươm của Ta ngấu nghiến máu thịt kẻ đã bị giết và xác những tù binh , ngấu nghiến đầu của những kẻ lãnh đạo thù địch Deut, 3241-42. Từ nhiều thế kỷ qua, tín đồ Thiên Chúa giáo được gợi hứng từ các đoạn văn đó trong Kinh Thánh, đã khuyến khích và thậm chí tuyên dương chiến tranh, đã sử dụng bạo lực để truyền bá tôn giáo của họ. Thậm chí cho đến ngày nay, Thiên Chúa giáo vẫn phảng phất mùi vị quân phiệt rõ rệt. Đội quân Thập tự chinh với phương châm “ Máu và Lửa”; các thánh ca hát về “Tiến lên, hởi các chiến binh Thiên Chúa giáo hãy xông ra sa trường”; “Vinh danh Chúa và hãy đưa đạn đây” Nội dung Kinh Thánh có hàng lô ví dụ về chuyện Chúa giúp những người mộ đạo chiếm đoạt các thành phố, tàn sát thường dân và đánh bại quân thù ví dụ Num, 211-3, Num, 311-12, Deut, 232-34, Deut, 33-7, Josh, 116-11, Về vấn đề tù binh, Chúa bảo Và các ngươi phải huỷ diệt tất cả những người nào mà Chúa đã giao cho các ngươi, các ngươi không được xót thương họ Deut, 716. Khi Chúa giao họ cho các ngươi và các ngươi đánh bại được họ, thì các ngươi phải tiêu diệt toàn bộ và không được tỏ ra thương xót Deut, 72. Ngay cả tín đồ Thiên Chúa giáo cũng thường bị sốc khi đọc các đoạn này. Còn Phật tử thì cảm thấy rõ ràng những đoạn đó đã xác quyết cho lý do vì sao họ không chấp nhận Chúa Trời và vì sao họ tin vào Đức Phật. Thái độ đối với chiến tranh của Đức Phật là gì? Chẵng hề có một ví dụ nào về Đức Phật tán dương chiến tranh, khuyến khích chiến tranh, hay tự gây chiến tranh. Ngược lại, Ngài được mô tả theo chủ trương sống trong hoà bình và hoà hợp. Và được mô tả như sau Ngài là một nhà hoà giải những ai đang xích mích và cổ vũ những ai đang đoàn kết, hoan hỉ yêu thích vui thú trong hoà bình, Ngài là người đề cao hòa bình Digha Nikaya, Kinh số1. Ngài là một gương mẫu về con người hoà bình. Từ bỏ giết chóc, thầy tăng Cồ Đàm sống không sát sinh, chẵng có gậy gộc gươm đao, Ngài sống với chăm lo, tình thương, và đồng cảm với người khác Digha Nikaya, Kinh số 1. Đức Phật không chỉ hài lòng với chuyện tuyên dương hoà bình hay tự làm cho mình an lạc. Ngài còn tích cực đẩy mạnh hoà bình bằng cách nỗ lực ngăn chặn chiến tranh. Khi các bà con thân thích của Ngài sắp bước vào cuộc chiến tranh vì tranh chấp gìòng nước sông Rohini, Đức Phật đã không đứng về phe nào, không động viên phe nào, không tư vấn chiến thuật cho phe nào, hay không bảo phe nào đừng thương xót kẻ thù như Chúa Trời đã làm. Thay vào đó, Ngài đứng giữa hai phe và nói “Máu hay nước, cái gì quý hơn?” Những người chiến binh bèn trả lời , “Thưa Ngài, máu quý hơn”. Thế rồi Đức Phật bảo “Thế thì đổ máu vì nước có đúng không?” Cả hai phe vội buông vũ khí và hoà bình được vãn hồi Dhammapada Atthakata, sách số l5,l. Đức Phật gạt hận thù sang một bên và tâm Ngài chứa đầy yêu thương và trắc ẩn, vì thế, đối với Ngài, tán đồng chiến tranh là điều không thể chấp nhận được. Người dịch [Trích từ Chương 4 của tác phẩm “Tin Không Nổi – Một Phê bình Thiên Chúa giáo Bảo thủ từ góc độ Phật giáo” Beyond Belief – A Buddhist Critique of Fundamentalist Christianity của de Silva.] Chương 1 Giới thiệu Chương 2 Các luận cứ của tín đồ Thiên Chúa giáo về sự hiện hữu của Chúa Trời Chương 3 Tại sao Chúa Trời không thể hiện hữu Chương 5 Sự thật và Hư cấu trong cuộc đời của Giê-su Chương 6 Một Phê bình về Kinh Thánh Chương 8 Làm sao đối đáp với những nhà truyền đạo Công giáo và Tin Lành Single Post Navigation
Lễ Phật Đản là ngày lễ lớn nhất của Phật giáo để mừng ngày Phật Thích Ca ra đời. Người Việt Nam ai cũng biết tới Phật Thích Ca hay Phật Tổ, Phật Như Lai… Tuy nhiên sự tích Phật Thích Ca cũng như lịch sử ra đời thì chưa hẳn ai cũng biết. Hãy tham khảo kỹ về Phật Tổ, Phật Thích Ca Mâu Ni qua bài viết này của chúng tôi nhé! Contents1 Phật Tổ Như Lai là ai?2 Sự tích Phật Thích Sự ra đời của Phật Thích Con đường tìm đến chính Quá trình khổ luyện tu hành3 Xá lợi Phật Thích Ca Phật Tổ Như Lai là ai? Phật Tổ Như Lai là ai? Phật Thích Ca Mâu Ni là ai? Rất nhiều người không biết được Phật Thích Ca đang nhắc tới chính là Phật Thích Ca Mâu Ni. Người còn có các tên thường gọi khác ở Việt Nam như Phật Tổ, Phật Như Lai, Phật Tổ Như Lai, Tất Đạt Đa Cồ Đàm…Trong đó Như Lai là một danh hiệu của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy Phật Tổ Như Lai, Phật Thích Ca Mâu Ni là một người. Bạn đang xem Phật tổ là ai Phật Tổ Như Lai là chính là Thích Ca Mâu Ni, Tất Đạt Đa… Không chỉ Phật tử trên thế giới mà ngay cả những người không theo đạo chắc chắn đã gặp hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Tổ được tạc khắc thành tượng hay phác họa trên tranh ảnh, trưng bày nhiều ở nơi thờ cúng của Phật giáo trong các triều đại lịch sử hàng trăm, nghìn năm trước. Dựa theo những tài liệu của Phật giáo, Phật Thích Ca sinh ra tại tiểu vương quốc Shakya Thích-Ca, ngày nay thuộc đất nước Ấn Độ. Ngài vốn là là Thái Tử Tất Đạt Đa – Người có xuất thân Cao quý nhất triều đại. Từ nhỏ Thái Tử Tất Đạt Đa đã sống trong nhung lụa, được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm đã từ bỏ tất cả để đi tìm đạo, cứu khổ cứu nạn nhân gian và sáng lập nên Phật giáo. Tất Đạt Đa Cồ Đàm đã tự giác ngộ chân lý cho bản thân, giải thoát khỏi quy luật sinh tử luân hồi. Đồng thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã truyền bá những triết lý ấy cho con người ở trần gian để họ được giải thoát khỏi khổ đau, hướng tới những điều tốt đẹp. Những lời dạy của Đức Phật Thích Ca ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trải qua thời gian, bài giảng về cuộc đời và giới luật Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng giải vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Các Phật tử cùng nhau học kinh phật Sự tích Phật Thích Ca Nói về Sự tích Phật Thích Ca Mâu Ni, rất nhiều điều thú vị xoay quanh lịch sử Đức Phật Thích Ca này. Tuy nhiên kể ra rất dài lắm, quý vị cũng khó đọc hết nên chúng tôi sẽ tóm tắt lịch sử Đức Phật Thích Ca như sau Sự ra đời của Phật Thích Ca Tương truyền, vào ngày mùng 8 tháng 4 năm 624 TCN, Thái tử Tất Đạt Đa đã ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni của hoàng cung. Trước khi hạ sinh Tất Đạt Đa, hoàng hậu Maha Maya đã mơ thấy từ ngọn núi vàng, có một con bạch tượng xuất hiện, dâng một đóa sen trắng lên cho bà. Sự ra đời của Phật Thích Ca Không giống như những đứa trẻ bình thường khác, Tất Đạt Đa ra đời đã biết đi. Mỗi bước đi của Ngài nở ra một bông hoa sen trắng. Vào giây phút thiêng liêng ấy, trời đất, nhân gian cũng có sự thay đổi kỳ lạ. Cả bầu trời được bao phủ bởi ánh hào quang rực rỡ. Con người trên nhân gian sống trong bầu không khí bình yên, hạnh phúc. Nhận thấy nhiều điều kỳ diệu đó, vua cha đã tìm những đạo sư giỏi nhất trong cả nước để cầu phúc và xem tướng cho con trai. Một hôm, có vị đạo sư đến từ vùng Hy Mã Lạp Sơn nay thuộc dãy núi Himalaya xin được gặp thái tử. Ông phán rằng, sau này nhất định Thái tử Tất Đạt Đa sẽ theo nghiệp tu hành và đắc đạo. Có khá nhiều người nghĩ Phật Thích Ca và Phật A Di Đà là một, tuy nhiên thực tế không phải vậy. Ấn vào đây để tham khảo thêm về vị Phật A Di Đà sẽ rõ hơn nhé! Con đường tìm đến chính đạo Thái tử Tất Đạt Đa vốn là người trầm tư, nhân hậu, có lòng vị tha. Ngài thường một mình tìm đến những nơi yên tĩnh để thiền định. Bên cạnh đó, với vốn thông minh trời ban, năm 13 tuổi đã tinh thông học vấn xuất chúng. Năm 16 tuổi, Tất Đạt Đa Cồ Đàm kết duyên cùng công chúa Yasodhara. Con đường tìm đến chính đạo Cuộc sống bình yên và hạnh phúc bên gia đình cứ như thế trôi đi. Cho đến một ngày, khi đi ngang qua bốn cửa thành, thái tử nhìn thấy bốn bức tranh khác nhau về cuộc sống, đó là người già, người bệnh tật, xác chết và tu sĩ. Ngài nhận ra rằng, ai sinh ra rồi cũng già yếu, bệnh tật rồi lìa cõi trần gian. Hình ảnh siêu thoát của vị tu sĩ khiến Ngài vô cùng trân trọng. Cuối cùng, thái tử Tất Đạt Đa đã quyết định bỏ lại vinh hoa phú quý, đi theo con đường tu hành, tìm đến chánh đạo vào năm 29 tuổi. Xem thêm Diễm Hằng “Nhật Ký Vàng Anh” Vực Dậy Sau Liên Tiếp Biến Cố Đắng Cay, Kiệt Quệ Quá trình khổ luyện tu hành Ban đầu, Phật Thích Ca chọn đi theo con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Tuy nhiên sau 5 năm tu khổ hạnh, cơ thể Ngài quá suy nhược, có lúc cận kề cái chết. Người quyết định bỏ con đường khổ hạnh và tìm phương pháp khác. Chợt nhớ ngày thơ ấu ngồi thiền dưới gốc cây mận, càng nghĩ càng thấy phương pháp này tâm sáng, đầu óc minh mẫn. Quá trình khổ luyện tu hành Sau 49 ngày thiền định, tâm trí người khai quang phấn chấn. Sau khi tắm rửa ở sông Nairanjana, người xếp cỏ thành tọa cụ và bồ-đoàn. Ngồi kiết già, lưng thẳng đứng hướng về phía gốc cây bồ đề, mặt hơi cúi xuống nhìn về hướng đông, phía bờ sông Nairanjana. Cuối cùng, ông đạt Diệt-Thọ-Tưởng định Nirodha-samapatti, tỏa ra uy năng chiếu khắp Tam giới Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Ma vương Mara không muốn ông đắc đạo, đã quấy nhiễu bằng nhiều phương thức, nhưng cuối cùng đều thất bại. Ba cô con gái của ma vương hóa ra ba nàng tiên tuyệt đẹp để quyến rũ, nhưng cũng chịu thất bại. Thái tử Tất Đạt Đa chính thức biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh một lần nào nữa Ma vương Mara quấy nhiễu Phật Tổ đắc đạo Sau đó, có một vị Phạm Thiên là Sahampati đã thỉnh cầu đức Phật Tất Đạt Đa Cồ Đàm hoằng dương chánh pháp. Với lòng thương yêu chúng sinh, Phật Tổ chấm dứt sự yên lặng và quyết định chuyển Pháp Luân, dựa vào căn cơ của chúng sinh để thuyết Pháp cứu độ. Từ đó Tất Đạt Đa có danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Đến năm 80 tuổi, Phật Thích Ca Mâu Ni quyết định sẽ nhập cõi Niết bàn vì Ngài biết việc giáo hóa chúng sinh đã viên mãn. Ngài chọn vườn cây ở Sala ở Kusinara làm nơi yên nghỉ. Gương mặt vô cùng thư thái, nằm nghiêng, chân phải đặt lên chân trái. Năm 80 tuổi, Phật Thích Ca Mâu Ni nhập cõi Niết bàn Xá lợi Phật Thích Ca Nhiều người không phải tín đồ Phật giáo đã không tin là có Xá lợi Phật Thích Ca. Họ cho đó chỉ là huyền thoại cho đến năm 1898, ông Peppé khảo cổ tại vùng Pīprāvā, phía Nam nước Népal. Đã tìm thấy hộp chứa hai chiếc bình bằng đá có chứa viên xá lợi. Chiếc bình đã chứng minh về việc phân chia xá-lợi của Phật thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại Ấn Độ sau khi Phật nhập Niết bàn hoàn toàn là sự thật. Xá lợi Phật Thích Ca được chia làm 8 phần sau đó gộp lại để tôn thờ Sau khi qua đời, Xá lợi của Tất-đạt-đa Cồ-đàm được chia thành 8 phần, gồm Xứ Magadha xây tháp thờ xá lợi Phật ở RajagrihaXứ Vajji xây tháp ở Vesali,Xứ Sakya xây tháp ở MungaliXứ Koliya xây tháp ở RamagamaXứ Buliya xây tháp ở AllakappaVị Bà-la-môn xây tháp thờ ở VethadipaXứ Malla nhận 2 phần xá lợi, xây một tháp ở thủ đô Pava và một tháp khác tại Kusinagar. Riêng vị Bà la môn Dona xin thỉnh cái chậu vàng dùng để chia xá lợi, đem về khu vườn nhà mình xây tháp thờ. Sứ giả xứ Moriya đến trễ, xin thỉnh phần tro còn lại về xây tháp thờ tại thủ-đô Pipphalivana. Nhiều thế kỷ sau đó, vua Ashoka đã tập hợp các xá lợi, cho xây cất và tôn thờ thành tháp. Chân lý Phật Thích ca trường tồn với thời gian Ngày nay tại Việt Nam có thêm 1 Đạo Cao Đài phái khác cũng có thờ thêm cả Phật Thích Ca. Cụ thể Đạo Cao Đài là gì? Tại sao thờ Phật Tổ Như Lai? Ấn tham khảo ngay! Hy vọng qua bài viết trên đây, bạn đã hiểu rõ về thân thế, cuộc đời và con đường khổ luyện tu hành và đến cõi Niết bàn của Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Tổ Như Lai hay Tất Đạt Đa Cồ Đàm. Những chân lý mà Phật Tổ truyền thụ có giá trị to lớn trường tồn với thời gian. Thờ cúng Phật Tổ gần như có khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam. Tại cửa hàng chúng tôi có bán bàn thờ Phật, Quý vị có thể ấn vào đây để tham khảo chọn mua cho mình những mẫu đẹp nhất!
khuongtunha Giáo Sư cấp 1 Tham gia ngày 21/4/18 Bài viết 314 Đã được thích 859 Điểm thành tích 60 Giới tính Nam Nơi ở Cung Trăng Trong "Tây Du Ký" thì Ngọc Hoàng và Phật Tổ Như Lai đều có thân phận cao quý, thần thông quảng đại, cao siêu, nhưng so sánh về quyền lực và sức mạnh thì ai hơn ai? Theo nội dung phim “Tây Du Ký”, thì các vị thần tiên được chia thành hai nhóm - Nhóm các vị thần phương Đông do Ngọc Hoàng lãnh đạo - Nhóm các vị Phật, Bồ Tát ở núi Linh Sơn Tây Thiên do người đứng đầu là Phật Tổ Như Lai. Hai vị là hai đấng tối cao, một bên đại diện cho Đạo giáo, một bên đại diện cho Phật giáo. Đầu tiên nói về Tu tập Phật Tổ Như Lai Ngài ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề sau 49 ngày thì đắc đạo thành Phật. Dù sau đó Ngài trở thành người đứng đầu trong các vị Phật ở núi Linh Sơn - Tây Thiên nhưng xét về tu tập đắc đạo thì Phật Tổ Như Lai chỉ có khoảng 7000 năm. Sở dĩ biết được thời gian tu tập của Ngài như vậy, là do trong một đoạn phim thầy trò đường tăng đi thỉnh kinh gặp ba con yêu quái ở núi Sư Đà. Trong đó lão đại nguyên là con Sư Tử vật cưỡi của Văn Thù Bồ Tát, lão nhị là con voi vật cưỡi của Phổ Hiền Bồ Tát. Khi Phật Tổ Như Lai hỏi hai vị Bồ Tát rằng hai con yêu quái này đã xuống núi được bao lâu và nhận được câu trả lời là bảy ngày. Lúc này Như Lai mới đáp rằng “Trên núi Linh Sơn là 7 ngày bằng dưới hạ giới cả nghìn năm, không biết từng ấy năm trôi qua hai con yêu quái này đã làm hại biết bao nhiêu sinh linh, phải mau chóng bắt chúng về chịu tội.” Còn về phía Ngọc Hoàng Thượng Đế khi Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung, Phật Tổ đã nói rằng "Ngọc Đế là người đã khổ công tu luyện một ngàn bảy trăm năm mươi kiếp 1750 kiếp. Mỗi một kiếp là mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm 129600 cuối cùng tu thành mới được hưởng thụ phúc ấy. Tính ra thời gian tu tập của Ngọc Hoàng là hơn hai triệu năm, gấp nhiều lần so với thời gian tu tập của Phật Tổ Như Lai. Thứ hai nói về Địa vị “Ngọc Hoàng” hay “Ngọc Hoàng Đại Đế” chỉ là tên rút gọn. Tôn hiệu đầy đủ của ngài là “Cao Thiên Thượng Thánh Đại Từ Nhân Giả Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Khung Cao Thượng Đế”. Nghĩa là vị Thánh tối cao trên đỉnh trời, vô cùng nhân từ, là Ngọc Hoàng bậc Thiên tôn vĩ đại, Huyền diệu lớn lao làm chủ trên cao. Tôn hiệu này chính là đại diện cho thân phận cao quý và địa vị vô song của Ngọc Hoàng trong tam giới dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Tôn hiệu đầy đủ của Phật Tổ Như Lai là “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni” và nếu xét địa vị thì Phật Tổ Như Lai chỉ xếp thứ ba, trước ngài là Nhiên Đăng Cổ Phật và Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Như vậy rõ ràng, dù là người cai quản thánh địa Tây Thiên nhưng vị trí của Phật Tổ Như Lai trong giới Phật vẫn chưa phải là cao nhất. Có thể nói nếu so sánh địa vị thì Phật Tổ vẫn kém Ngọc Đế . Thứ ba nói về Quyền lực Mặc dù pháp lực của Phật Tổ cao siêu, có thể dễ dàng thu phục một Tề Thiên Đại Thánh tinh thông 72 phép biến hóa khiến thiên binh vạn mã phải “bó tay” chỉ bằng một bàn tay của ngài. Tuy nhiên, quyền của ngài cũng chỉ có thể giới hạn ở Linh Sơn và chỉ ở phạm vi những nơi đạo Phật được truyền bá, các tín đồ Phật giáo và các vị đức Phật, Bồ Tát dưới quyền của ngài. Tuy nhiên, trong “Tây Du Ký” chúng ta thấy Ngọc Hoàng mới là người có quyền năng và sức mạnh lớn nhất. Nếu để ý những chi tiết sau đây thì bạn sẽ nhận ra quyền lực của Ngọc Hoàng tối thượng đến mức nào. Khi Tôn Ngộ Không trộm gậy Như Ý từ Đông Hải, Long Vương đã phải báo cáo ngay việc này lên thiên đình. Khi Tôn Ngộ Không thay đổi sổ sinh tử Diêm Vương cũng phải có cáo trạng báo ngay chuyện này tới Ngọc Hoàng. Chứng tỏ Ngọc Hoàng nắm trong tay vô số quyền lực. Người thống trị cả tam giới, cai quản toàn bộ bầu trời, mặt đất, biển cả và cõi âm. Tất cả các vị thần, con người, yêu quái, ma quỷ đều phải nghe theo Ngọc Hoàng. Điều này hoàn toàn chứng tỏ quyền lực của Ngọc Hoàng phủ rộng hơn rất nhiều so với Phật Tổ Như Lai. Thứ tư là về sự xuất hiện Ngọc Đế xuất hiện lần đầu tiên trong phim “Tây Du Ký” khi Tôn Ngộ Không ra đời ở đỉnh Hoa Quả Sơn kéo theo vô số những hiện tượng kì dị làm kinh động lên cả thiên đình Điều này càng chứng tỏ quyền hạn tối cao của Ngọc Hoàng, chỉ một biến động nhỏ trong Tam Giới cũng nắm được . Còn Phật Tổ Như Lai chỉ xuất hiện vào lúc Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung và được Ngọc Hoàng mời về để “trừng trị” con khỉ hỗn láo . Dù Phật Tổ Như Lai thu phục được Tề Thiên Đại Thánh, nhưng điều đáng lưu ý là ngài phải tuân theo ý chỉ của Ngọc Hoàng. Nếu như Ngọc Hoàng không cho truyền Như Lai đến, thì dù có xảy ra nhiều việc trọng đại Phật Tổ cũng không được phép tự ý can thiệp. Vì vậy, ở điểm này cho thấy quyền hạn của Ngọc Hoàng là rất lớn. Qua bốn vấn đề trên có thể kết luận rằng trong phim “Tây Du Ký”, với tư cách là chủ nhân của Tam giới thì Ngọc Hoàng chắc chắn có quyền lực to hơn Phật Tổ Như Lai. Nhiều khán giả chắc chắn sẽ bất ngờ với đáp án này bởi vì chịu ảnh hưởng của sự kiện “đại náo thiên cung”. Sau khi thu phục Tôn Ngộ Không thành công , các vị đại tiên cũng như Ngọc Hoàng đều tán thưởng sự lợi hại của Như Lai, nhưng ngài lại đáp rằng “Lão Tăng chỉ là phụng mệnh Thiên Tôn mà tới, nào có pháp lực lợi hại gì? Đều là nhờ hồng phúc lớn lao của Thiên Tôn và chư vị đại tiên. Không dám. Không dám nhận lời cảm tạ của Thiên Tôn.” Có thể thấy là ngài khiêm tốn, nhưng cũng là do quyền lực của Ngọc Đế “thâm tàng bất lộ” và lớn đến mức Phật Tổ Như Lai phải khiêm nhường, kính trọng. Chỉnh sửa cuối 29/7/19 lúc 2142 Anh Ba làng mắm Học sinh Tham gia ngày 26/7/19 Bài viết 5 Đã được thích 12 Điểm thành tích 50 Giới tính Nam Nơi ở Đá Nẵng Hay quá anh Cuội ơi! Nhưng đọc bài này chắc các fan hâm mộ đạo Phật có lẽ không thích lắm. Cảm ơn bạn cuội phân tích rất hay khuongtunha thích bài này. Chia sẻ trang này
ngọc hoàng và phật to ai to hơn